Đau bụng quanh rốn là triệu chứng thường gặp do vấn đề ăn uống không lành mạnh, tuy nhiên tình trạng này diễn ra thường xuyên có thể là dấu hiệu cảnh báo bệnh về đường ruột và các bệnh khác ngoài hệ tiêu hóa.
Mục lục
1. Đau bụng quanh rốn là dấu hiệu của bệnh gì?
1.1. Loạn khuẩn đường ruột
Khi số lượng hại khuẩn trong ruột chiếm ưu thế, lượng lợi khuẩn mất đi sẽ xảy ra tình trạng rối loạn tiêu hóa với triệu chứng đặc trưng là cơn đau bụng quanh rốn, không khu trú một điểm cố định nào trên bụng. Cơn đau có nhiều mức độ khác nhau, lúc quặn thắt lúc âm ỉ. Triệu chứng đi kèm thường có đầy hơi chướng bụng, buồn nôn, cồn cào trong ruột, phân có mùi rất hôi.
Loạn khuẩn đường ruột kéo dài sẽ khiến người bệnh có cảm giác chán ăn, chất dinh dưỡng không hấp thu được, cơ thể dần suy nhược, gầy gò. Do đó, khi bị bệnh cần điều chỉnh lại chế độ ăn uống với các thực phẩm dễ tiêu hóa, sạch sẽ, tránh thực phẩm có tính kích thích (như đồ cay, rượu, bia, thuốc lá), đồng thời tránh thức khuya căng thẳng, sử dụng kháng sinh đúng cách.
1.2. Không dung nạp thực phẩm
Không dung nạp lactose
Một số người không thể dung nạp được lactose (do thiếu hụt một loại enzyme lactase được sản xuất trong ruột non của người) nên khi uống sữa và ăn các thực phẩm nguồn gốc từ sữa (pho mai, pho mát, bơ,…) có thể bị đau quặn bụng, kèm theo sôi bụng ọc ọc, đầy hơi và tiêu chảy nhiều lần. Tình trạng này còn được gọi là kém hấp thu đường sữa. Đây không phải bệnh truyền nhiễm nên không lây, bệnh phổ biến ở người lớn hơn trẻ nhỏ. Hiện tại chỉ có thể tránh các triệu chứng của bệnh bằng cách loại bỏ các thực phẩm có chứa lactose.
Không dung nạp gluten (bệnh Celiac)
Bệnh Celiac ít phổ biến hơn. Bệnh xảy ra khi cơ thể không thẻ dung nạp được các thực phẩm chứa gluten (phổ biến trong lúa mì, lúa mạch, lúa mạch đen).
Trẻ em bị bệnh này thường có các triệu chứng như đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, phân hôi và có nhầy như mỡ. Người lớn thường ít các biểu hiện đường tiêu hóa hơn, đa phần là thấy cơ thể mệt mỏi, đau xương khớp. lo lắng, dễ cáu bẳn, phụ nữ có thể bị trễ kinh.
Tương tự như hội chứng không dung nạp lactose, bệnh nhân Celiac cũng cần tuân thủ nghiêm ngặt chế độ ăn không có gluten để tránh gặp các triệu chứng khó chịu.
1.3. Nhiễm trùng đường ruột
Nhiễm trùng đường ruột thường xảy ra do ăn uống không hợp vệ sinh. Các loại ký sinh trùng đi theo thức ăn hoặc theo đường phân miệng xâm nhập trong cơ thể và gây ra triệu chứng đau bụng co thắt. Cơn đau thường kéo dài vài phút và có thể trầm trọng hơn, kèm theo buồn nôn, chướng bụng. Cường độ đau giảm dần sau khi đi đại tiện. Trong các dạng nhiễm trùng đường ruột nặng, đặc biệt là bệnh kiết lỵ, cảm giác đau liên tục có thể kèm theo triệu chứng đi ngoài ra máu.
Đọc thêm: Đau bụng dưới rốn ở nữ là do đâu?
1.4. Nhiễm giun
Nhiễm giun sán là nguyên nhân phổ biến của những cơn đau bụng quanh rốn. Cơn đau bụng có thể diễn tiến trong thời gian ngắn, không có yếu tố kích thích rõ ràng. Nếu giun làm gián đoạn quá trình vận chuyển thức ăn qua đường tiêu hóa, cơn đau sẽ tăng lên, kèm theo táo bón.
1.5. Viêm phúc mạc
Phúc mạc là một màng mỏng trơn láng, bọc lót mặt trong thành bụng, có nhiệm vụ bao bọc và bảo vệ tất cả các cơ quan trong ổ bụng. Lớp phúc mạc bị viêm do ảnh hưởng của nấm, khuẩn hoặc biến chứng vỡ, thủng của nhiều bệnh lý khác (ví dụ như thủng dạ dày, vỡ u nang buồng trứng, vỡ ruột thừa)
Viêm phúc mạc cấp cần cấp cứu y tế khẩn cấp nếu không nguy cơ tử vong rất cao. Biểu hiện của bệnh là cơn đau đột ngột dữ dội như đao đâm, da tái lạnh, nhịp tim nhanh, tiêu chảy, ngất xỉu.
1.6. Tắc ruột
Tắc ruột đặc trưng bởi cơn đau dữ dội đột ngột khắp bụng, kèm theo nôn mửa và táo bón. Với tắc ruột cơ học, cơn đau tăng lên đến mức không thể chịu đựng được trong suốt quá trình di chuyển của sóng nhu động, sau đó giảm bớt trong một thời gian ngắn.
Đối với liệt ruột, biểu hiện điển hình là các cơn đau lan tỏa, có cường độ nhẹ hơn. Đặc tính của chúng không phụ thuộc vào nhu động. Người bệnh thường bị đau bụng nhẹ, buồn nôn, táo bón, bụng căng phình to.
1.7. Thiếu máu mạc treo
Thiếu máu mạc treo là tình trạng tắc dòng máu nuôi ruột do huyết khối, tác mạch hoặc dòng chảy kém, nó giải phóng các chất trung gian, hình thành viêm và dẫn đến nhồi máu. Người bệnh có thể bị đau bụng, bụng mềm. Cơn đau có thể trở nên dữ dội không thể chịu nổi, khiến người bệnh rên rỉ, vật vã.
Nếu không được điều trị, nhồi máu mạc treo cấp tính có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như: nhiễm trùng huyết (làm tổn thương và suy đa tạng), suy dinh dưỡng (do chán ăn kéo dài), mạch máu tắc hoàn toàn nguy hiểm tính mạng.
1.8. Các trường hợp khẩn cấp
Nhiễm toan ceton do đái tháo đường: Đặc trưng bởi cơn đau dữ dội hoặc đau rát ở bụng mà không khu trú rõ ràng, phát triển vào ban ngày. Đối với nhiễm toan ceton, bệnh nhân cũng có dấu hiệu nôn nhiều lần, có dấu hiệu mất nước, suy giảm ý thức.
Sốc phản vệ: Các triệu chứng xuất hiện mạnh, trong vài phút. Cơn đau lan khắp bụng kết hợp với tình trạng ngày càng suy giảm sức khỏe và tụt huyết áp. Thường bệnh nhân không quá coi trọng cơn đau vì tình trạng bệnh chung nặng.
Mổ phình động mạch chủ: Đầu tiên, cảm giác đau ở ngực, sau đó, do toàn bộ động mạch chủ bị ảnh hưởng, chúng lan đến khoang bụng. Cảm giác đau có thể di chuyển từ bụng xuống lưng dưới và ngược lại.
1.9. Rối loạn chuyển hóa porphyrin cấp tính ngắt quãng
Đây là một rối loạn chuyển hóa ít gặp, ảnh hưởng tới việc sản xuất heme (một chất tiền thân của hemoglobin) do thiếu hụt porphobilinogen deaminase.
Hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng, một số ít còn lại sẽ có biểu hiện đau khắp vùng bụng, đến mức phải nhập viện. Ngoài ra, người bệnh còn bị sốt, tăng huyết áp và đau vùng thắt lưng, kèm theo nước tiểu màu hồng.
1.10. Nguyên nhân hiếm gặp
- Các quá trình viêm: viêm tuyến mỡ, cắt ngang
- Biến chứng có mủ: áp xe trong ruột, tắc ruột, áp xe sau phúc mạc
- Hội chứng ruột thừa – sinh dục
- Ngộ độc: asen , thủy ngân, nấm
- Khối u của các cơ quan trong ổ bụng
- Tổn thương mô liên kết : viêm mạch hệ thống, xơ cứng bì , viêm da cơ
- Viêm loét đại tràng ở những bệnh nhân dùng thuốc kháng viêm không steroid
- Vêm niêm mạc ở bệnh nhân ung thư đang hóa trị, xạ trị
Đọc thêm: Đau bụng dưới rốn ở nam là do đâu?
Chẩn đoán đau bụng quặn quanh rốn
Tùy thuộc vào cường độ của cơn đau và các triệu chứng kèm theo, việc khám chữa cho bệnh nhân sẽ có sự tham gia của bác sĩ về bệnh truyền hóa, bác sĩ tiêu hóa và bác sĩ phẫu thuật.
Đầu tiên, bác sĩ sẽ tiến hành quá trình hỏi bệnh để tìm hiểu đầy đủ triệu chứng cũng như bệnh sử, tiền sử bệnh của các thành viên khác trong gia đình bệnh nhân. Sau đó khám sức khỏe và kiểm tra các triệu chứng của kích ứng phúc mạc. Để xác định nguyên nhân của các cơn đau lan tỏa trong bụng, bệnh nhân sẽ phải thực hiện các phương pháp chẩn đoán như sau:
Siêu âm ổ bụng thấy thành ruột dày và phù nề, đôi khi thấy tràn dịch màng bụng. Quét hai mặt được sử dụng để đánh giá lưu lượng máu trong các mạch mạc treo, để chẩn đoán huyết khối mạch máu và nhồi máu ruột.
Chụp X quang để xác nhận tắc ruột bằng hình cốc Kloiber đặc trưng và vòm ruột. Đối với trường hợp đau mãn tính khắp bụng, có thể tiến hành thụt bari , chụp X-quang đường tiêu hóa có uống thuốc cản quang để kiểm tra niêm mạc ruột.
Nội soi ổ bụng, nếu căn nguyên không rõ ràng, bác sĩ phải tiến hành kiểm tra trực quan khoang bụng thông qua nội soi, nhằm phát hiện sự thay đổi màu sắc và mô hình mạch máu của thành ruột, cho thấy tràn dịch mủ, phân hoặc huyết thanh.
Trong thực hành tiêu hóa, nội soi ruột được được coi là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán nguyên nhân của tình trạng đau bụng quanh rốn. Nếu nghi ngờ bệnh lý mạch máu, chụp CT mạch mạc treo tràng, chụp động mạch chủ. Để phát hiện các quá trình khối u, CT và MRI của các cơ quan trong ổ bụng được chỉ định .
Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm: xét nghiệm mẫu phân,xét nghiệm máu, xét nghiệm huyết đồ, phân tích nồng độ glucose, chỉ số urê và creatinine được chỉ định.
Đau bụng quanh rốn điều trị thế nào?
Khi bị đau bụng quanh rốn, với trường hợp có thể bị nhiễm trùng đường ruột, cần rửa dạ dày, uống chất hấp thụ, bù điện giải để chống mất nước. Với rối loạn vi khuẩn do điều trị bằng kháng sinh, nên bổ sung kefirs và sữa chua vào chế độ ăn uống chứa nhiều vi khuẩn axit lactic hữu ích. Với những cơn đau lan tỏa dữ dội ở vùng bụng, bệnh nhân cần được cấp cứu.
Điều trị bằng thuốc
Thuốc được kê đơn sau khi bác sĩ biết rõ nguyên nhân đau bụng là gì. Với các trường hợp bị đau do nhiễm trùng đường ruột (nhưng không có biến chứng) thì đa phần bác sĩ chỉ định bù nước và điện giải, không cần thiết dùng thuốc kháng khuẩn.
Để loại bỏ cơn đau bụng liên quan đến việc không dung nạp lactose hay gluten thì bệnh nhân cần chủ động tránh ăn các loại thức ăn có chứa 2 thành phần này để không bùng phát triệu chứng.
Với viêm đại tràng và loạn khuẩn đường ruột, ưu tiên hường đầu là cân bằng hệ vi sinh đường ruột với sự trợ giúp của probiotics và prebiotics. Thuốc cải thiện tiêu hóa, bình thường hóa phân, do đó cảm giác khó chịu và đau ở bụng biến mất. Thuốc kháng sinh được chỉ định cho các trường hợp nhiễm trùng đường ruột nặng, một số tình trạng phẫu thuật để ngăn ngừa các biến chứng.
Với trường hợp bị đau không thể chịu đựng được thì cần phải sử dụng thuốc giảm đau mạnh. Đối với các bệnh của các cơ quan và hệ thống khác, biểu hiện bằng đau bụng, liệu pháp di truyền bệnh nguyên của bệnh lý cơ bản là cần thiết. Bị nhiễm toan ceton, việc điều chỉnh nồng độ glucose, axit-bazơ và thành phần điện giải trong máu được thực hiện. Chăm sóc khẩn cấp các dấu hiệu của sốc phản vệ bao gồm sử dụng khẩn cấp glucocorticoid và adrenomimetics.
Điều trị bằng phẫu thuật
Các bệnh như viêm phúc mạc, nhồi máu ruột, tắc ruột cần can thiệp ngoại khoa khẩn cấp. Ca mổ nhằm loại bỏ tập trung bệnh lý, khôi phục tính toàn vẹn và liên tục của ống ruột, vệ sinh khoang bụng. Trong giai đoạn hậu phẫu, liệu pháp kháng sinh ồ ạt, liệu pháp truyền dịch được chỉ định .